Trước áp lực nợ xấu, đặc biệt là nợ xấu nhóm 5 do khó khăn của thị trường, các ngân hàng đang tiếp tục gia tăng bộ đệm dự phòng.
Trước áp lực nợ xấu, đặc biệt là nợ xấu nhóm 5 do khó khăn của thị trường, các ngân hàng đang tiếp tục gia tăng bộ đệm dự phòng.
Ngày 30/6/2022, Thông tư 14 về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi Covid-19 đã hết hiệu lực. Nhiều quan điểm cho rằng dư nợ tái cơ cấu có thể trở thành nợ xấu, khiến nợ xấu có thể tăng mạnh, tuy nhiên theo các chuyên gia, nợ xấu có thể tăng nhưng không đáng lo ngại.
Khi các khoản nợ tái cơ cấu đang dần hết thời gian ân hạn, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng gia tăng. Theo các chuyên gia của Mirae Asset, xu hướng chung của nợ xấu vẫn có thể tiếp tục tăng trong nửa sau năm 2022 vì đa phần nợ tái cơ cấu phát sinh trong quý 3/2021. Do đó, các ngân hàng phải tăng cường trích lập dự phòng.
Trên thực tế, khi áp lực nợ xấu gia tăng trong những tháng cuối năm, nhiều ngân hàng tiếp tục tăng trích lập dự phòng rủi ro, tăng cường bộ đệm vốn.
Cụ thể, "ông lớn" BIDV - quán quân về cho vay khách hàng đã tăng mức trích lập dự phòng gần gấp rưỡi sau 9 tháng đầu năm 2022 với 41.948 tỷ đồng. VietinBank và Vietcombank cũng ghi nhận tăng trưởng lần lượt 52% và 41% so với cuối năm trước, đạt 39.249 tỷ đồng và 36.173 tỷ đồng.
Tại nhóm ngân hàng tư nhân cũng ghi nhận dự phòng rủi ro cho vay khách hàng tăng mạnh sau 9 tháng đầu năm 2022. Chẳng hạn như SHB tăng tới 40% so với đầu năm, lên 6.503 tỷ đồng; LienVietPostBank tăng 44% đạt 4.564 tỷ đồng; hay dự phòng rủi ro tại VPBank cũng tăng 27% so với đầu năm, đạt 12.524 tỷ đồng;…
Có thể nhận thấy rằng xu hướng tăng dự phòng tại các ngân hàng vẫn chiếm chủ đạo. Thế nhưng, vẫn có một số ít ngân hàng giảm dự phòng rủi ro như Sacombank (giảm 16%), ACB (giảm 5%), MSB (giảm 5%) và Bac A Bank (giảm 3%).
Việc tăng cường bộ đệm dự phòng sẽ giúp các ngân hàng chuẩn bị sẵn sàng khi đứng trước nguy cơ tiềm ẩn về rủi ro nợ xấu, nhất là khi Thông tư 14 không còn hiệu lực từ cuối tháng 6. Khi chất lượng tài sản của các ngân hàng được cải thiện, vấn đề nợ xấu không phải quá đáng lo.
Biến động nợ xấu nhóm 5 tính đến cuối quý 3/2022
Không ít ý kiến cho rằng việc dừng Thông tư 14 sẽ làm cho các ngân hàng đối mặt rõ hơn với nợ xấu. Và con số từ báo cáo tài chính hợp nhất quý 3/2022 cho thấy thực tế xấu nhanh hơn dự báo. Đặc biệt, nợ xấu nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) tại nhiều ngân hàng bất ngờ tăng bằng lần khiến nợ xấu ngày càng xấu.
Điển hình tại ngân hàng ACB, nợ nhóm 5 tính đến cuối quý 3/2022 bất ngờ cao gấp 2,31 lần so với đầu năm, lên mức hơn 3.190 tỷ đồng. Kéo theo tổng nợ xấu ngân hàng tăng 45% lên hơn 4.056 tỷ đồng dù nợ dưới tiêu chuẩn và nợ nghi ngờ đều giảm mạnh.
Tương tự tại TPBank, tính đến cuối quý 3/2022, tổng nợ xấu tăng 23% so với đầu năm, ghi nhận gần 1.426 tỷ đồng. Nguyên nhân do nợ nhóm 5 bất ngờ cao gấp 2,24 lần so với đầu năm, từ mức 297 tỷ đồng lên mức 666 tỷ đồng chỉ sau 9 tháng. Trong khi đó nợ dưới tiêu chuẩn giảm 22% và nợ nghi ngờ chỉ tăng nhẹ 4%.
Những ngân hàng quy mô nhỏ hơn cũng ghi nhận nợ xấu nhóm 5 tăng mạnh.
Chẳng hạn tại ngân hàng OCB, tính đến cuối quý 3/2022, nợ xấu nhóm 5 tăng đến 2,3 lần so với đầu năm, từ mức 733 tỷ đồng lên gần 1.700 tỷ đồng chỉ sau 9 tháng.
Thậm chí tại ngân hàng Quốc Dân, nợ xấu nhóm 5 tăng cao gấp 2,91 lần so với đầu năm, lên đến hơn 1.353 tỷ đồng khiến tổng nợ xấu tại ngày 30/09/2022 gấp 5,3 lần đầu năm, lên mức 6.648 tỷ đồng.
Ngoài ra, nợ xấu nhóm 5 tại nhiều ngân hàng khác cũng tăng khá mạnh so với đầu năm như: VietBank tăng 99% (1.841 tỷ đồng); VIB tăng đến 83% (2.420 tỷ đồng); ABBank tăng 40% (1.207 tỷ đồng); HDBank tăng 35% (1.193 tỷ đồng); LienVietPostBank tăng 35% (1.808 tỷ đồng); MBBank tăng đến 85% (1.516 tỷ đồng); Vietcombank tăng 30% (5.731 tỷ đồng); SaigonBank tăng 43% (253 tỷ đồng);…
Ở một diễn biến khác, tính đến cuối quý 3/2022 nợ xấu nhóm 5 một số nhà băng khác giảm so với đầu năm như: BaoViet Bank giảm 12% còn 795 tỷ đồng; Sacombank giảm 38% còn 2.762 tỷ đồng; Bac A Bank giảm 18% còn 453 tỷ đồng.
Trong nghiệp vụ ngân hàng, nợ được gọi là nợ xấu bao gồm các loại nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ mất vốn, nợ có khả năng mất vốn. Xếp theo cấp độ nguy hiểm và tỷ lệ trích lập dự phòng cũng phải tương ứng thì nợ có khả năng mất vốn là nguy hiểm nhất, sau đó đến nợ nghi ngờ, rồi nợ dưới tiêu chuẩn.
Cho dù con số tuyệt đối nợ có khả năng mất vốn của nhiều ngân hàng không phải là quá lớn so với lợi nhuận họ tạo ra, nhưng tốc độ tăng nợ xấu nói chung và nợ có khả năng mất vốn nói riêng, đang tạo nên sự cảnh báo không thể lơ là.
Hà Phương